Văn khấn lễ Tế Ngu (lễ 3 ngày sau khi mất hoặc chôn cất xong)
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
– Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
– Con kính lạy chư gia tiên Cào Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ.
Hôm nay là ngày.. Tháng … Năm …..
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là…vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹhoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâurể, con cháu nội ngoại kính lạy.
Này nhân ngày lễ Tế Ngu theo nghi lễ cổ truyền,
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của:Hiển…….chân linh
Xin kính cẩn trình thưa rằng.
Than ôi! Trên tòa Nam cực, lác đác sao thưa; (nếu khóc cha hoặc đổi là Bắc vụnếu khóc mẹ).
Trước chốn Giao trì, tờ mờ mây khóa.
Cơ tạo hóa làm chi ngang ngửa thế, bóng khích câu,
khen khéo trêu người.
Chữ cương thường nghĩ lại ngậm ngùi thay,
tình hiếu đễ chưa yên thỏa dạ.
Ơn nuôi nấng áo dày cơm nặng, biển trời khôn xiết
biết công lao;
Nghĩ sớm hôm ấp lạnh quạt nồng, tơ tóc những
hiềm chưa báo quả;
Ngờ đâu! Nhà Thung (nếu là cha hoặc Nhà Huyên nếu là mẹ) khuất núi, trời mâycách trở muôn trùng;
Chồi Tử mờ sương, âm dương xa vời đôi ngả.
Trông xe hạc lờ mờ ẩn bóng, cám cảnh cuộc phù sinh chưa mấy, gót tiên du đã lánhcõi trần ai.
Rồi khúc tằm. áy náy trong lòng, thương thay hồn bất tử về đâu, cửa Phật độ biếtnhờ ai hiện hóa.
Suối vàng thăm thẳm, sáng phụ thân (hoặc mẫu thân) một mình lìa khơi,
Giọt ngọc đầm đìa, đàn con cháu, hai hàng lã chã.
Lễ Sơ Ngu (hoặc Tái Ngu, Tam Ngu) theo tục cổ, trình bày:
Nhà đơn bạc, biết lấy gì để dóng dả.
Đành đã biết: đất nghĩa trời kinh, nào chỉ ba tuần nghi tiết,
đủ lễ báo đền
Cũng gọi là: lưng cơm chén nước, họa may chín suối anh linh,
được về yên thỏa
Ôi! Thương ôi!
Chúng con lễ bạc tâm thành, thành tâm kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.
Kính cáo!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!