Bếp số 41 : Bếp LY phối với Cửa LY
(Đây là Bếp Phục vị đắc vị. Ở Kinh Dịch là quẻ Bát Thuần Ly).
• Bếp Ly Hỏa phối với Cửa Ly cũng Hỏa, hai Hỏa tương tế nhau (lưỡng Hỏa thành viêm) cháy sáng lên mãnh liệt. Gia đạo thịnh phát ào ào nhưng vì tánh lửa không bền và sự phát đạt quá độ tất cũng không bền, Ly với Ly thuần Am tất hại Dương, nam tử chết yểu, phụ nữ cầm chế gia đình, nhân khẩu nhiều nữ ít nam, trẻ con bất lợi. Bếp này sanh các chứng bệnh đàm, tê xụi, ho lao, mắt đỏ, tim đau đầu đau, đau máu, bệnh thuộc âm nóng hầm hầm, hỏa khí xông lên miệng lưỡi nổi u nhọt, tim như bị đốt. Nó còn sanh ra các vụ thưa kiện, phỏng cháy.
• Lại có lời đoán như vầy: Thuần Am, dùng lâu sẽ tuyệt tự, con gái và rễ làm loạn trong gia đình, hàng trung nữ phá tán gia tài mà bệnh chẳng rời thân. Trên dưới vô tình, tôn ty bất nghĩa.
Bếp số 42 : Bếp LY phối với Cửa KHÔN
(Đây là Bếp Lục sát – hung. Ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Địa Tấn).
• Bếp Ly Am Hỏa phối Cửa Khôn Am Thổ, lửa đốt đất phải khô biến ra Bếp Lục sát bất lợi. Mẹ với con gái sống chung (Khôn Ly) là tượng thuần Am không có Dương: Nam tử chết sớm, tiểu nhi khó nuôi. Cho tới hàng phụ nữ cũng không trường thọ. Dùng Bếp này mãi về sau không con thừa tự. Bếp còn sanh các chứng bệnh đau tim, kinh nguyệt chẳng thông công phạt tim, lao dịch, thổ huyết.
• Lại có lời tượng đoán theo quẻ Tấn như vầy: Quẻ Tấn, âm nhân gom chứa tiền của. Thuần Am tất hại Dương, vợ chết lại nhiều phen lấy vợ. Trong nhà rối như cỏ mọc loạn nhiều thứ. Con cháu rất ít oi. Kết cuộc về sau phải dùng con họ khác làm kế thừa tự.
Bếp số 43 : Bếp LY phối với Cửa ĐOÀI
(Đây là Bếp Ngũ quỷ – đại hung. Ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Trạch Khuê).
• Ly Hỏa phối với Đoài Kim, lửa đốt cháy vàng lại thuần Am không có Dương, ba hạng: nam nhân, ấu phu, thiếu nữ đều đoản thọ. Bếp này sanh các chứng bệnh: ho lao gầy yếu, băng huyết, da mặt vàng khô, tiêu khát, thai hư hóa huyết. Nó còn sanh ra các sự việc nguy hại: bị các tà quỷ treo cổ trầm mình nhiễu nhương (phá hại), hỏa hoạn, trộm cướp, quan họa (tai họa về quan pháp), điền sản thoái bại, đàn bà góa chuyên quyền, người người tổn thương không có con để nối dòng.
• Lại có lời đoán theo quẻ Khuê như vầy: Quẻ Khuê, thê thiếp chịu thương tổn, người mang bệnh lao dịch, không con thừa tự cho nên bị con gái với chàng rễ tấn nhập gia cư. Hại thân người, hao tổn lục súc và phá tán tiền bạc là ba điều bất lợi.
Bếp số 44 : Bếp LY phối với Cửa KIỀN
(Đây là Bếp Tuyệt mệnh – đại hung. Ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu).
• Bếp Ly Hỏa khắc Cửa Kiền Kim, trước hại ông cha, kế đó hại hàng trung nữ. Bệnh chứng do Bếp gây ra: hư lao, ho suyễn, da vàng, thổ huyết, đau tê liệt, ghẻ độc, mắt tật. Các sự việc hung hại: treo cổ, trầm sông nhảy giếng, phỏng cháy, trộm cướp, phạm quan pháp, tà ma làm ra việc quái lạ. Hao phá tiền tài và tuyệt tự là hai điều chẳng khỏi.
• Lại có lời đoán theo quẻ Đại Hữu như vầy: Đại Hữu, trung nữ sanh đẻ băng huyết, nghẹn ăn nấc cục, nhà cửa bại hoại, con người chết mất, những vụ phỏng cháy trộm cướp xen nhau đến gây lắm tai ương. Bậc trưởng thượng cùng ấu nhi thường hay tật bệnh.
Bếp số 45 : Bếp LY phối với Cửa KHẢM
(Đây là Bếp Diên niên thất vị. Ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Thủy Vị Tế).
• Bếp Ly phối với Cửa Khảm là trung nam gặp trung nữ, là tượng phu thê chính phối, lại được Diên niên tức Vũ khúc kiết tinh, cho nên: tiền tài rất phong phú, công danh hiển hách, con cháu đầy nhà. Nhưng dùng Bếp này lâu năm sẽ khắc hại vợ, tim đau, mắt tật. Đó là bởi Khảm Thủy với Ly Hỏa tương khắc và vì Diên niên Kim lâm Ly Hỏa, cung khắc tinh, sự phát đạt chẳng yếu đi thì cũng không bền.
• Lại còn lời đoán theo quẻ Vị Tế như vầy: Vị Tế, được đạo Am Dương chính phối, nhà cửa cùng sự nghiệp và tài vật đều hưng tiến. Nhưng lâu năm cung thê thọ hình khắc (Ly bị Khảm khắc), tim đau, mắt bệnh.
-(Dẫn giải: Chính phối là hai cung đồng bậc với nhau mà có đủ Am Dương . Như Khảm thuộc Dương trung nam với Ly thuộc Am trung nữ. Như Cấn thuộc Dương thiếu nam với Đoài thuộc Am thiếu nữ. Như Chấn thuộc trưởng nam với Tốn thuộc Am trưởng nữ. Như Kiền thuộc Dương là cha với Khôn thuộc Am là mẹ. Phàm hai cung chính phối tất hỗ biến được Diên niên, rất tốt, duy Ly với Khảm không bền vì Hỏa với Thủy tương khắc).
Bếp số 46 : Bếp LY phối với Cửa CẤN
(Đây là Bếp Họa hại – hung. Ở Kinh Dịch là Quẻ Hỏa Sơn Lữ).
• Bếp Ly phối Cửa Cấn làm thành Bếp Họa hại. Ly lửa đốt Cấn là đất phài khô rang. Cấn ứng vào hạng thiếu niên và nhỏ tuổi chết mất. Ly ứng vào hạng trung nữ tánh táo bạo, nóng nảy, hung dữ. Ly đốt Cấn là tượng âm nhân nhiễu loạn mà nam nhân phải ngại sợ vậy. Bếp này sanh các chứng đầu óc hôn trầm (tối tăm), tê bại, tật mắt, đại tiện bón uất, kinh mạch chẳng điều hòa, si mê điếc lác, ngượng nghịu.
• Lại có lời tượng đoán theo quẻ Lữ như vầy: Quẻ Lữ, vợ chồng không thịnh vượng, con cháu khó nuôi tới lớn, nhân khẩu tổn thương, tiền tài chẳng hưng tiến. Con côi mẹ góa là định phận.
Bếp số 47 : Bếp LY phối với Cửa CHẤN
(Đây là Bếp Sinh khí đắc vị. Ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp).
• Bếp Ly Am Hỏa phối Cửa Chấn Dương Mộc là Am Dương toại hiệp, vạn vật sinh thành, là Mộc với Hỏa tương sanh, thông minh rạng rỡ. Sinh khí Mộc lâm Ly đắc vị là tượng Thanh long vào nhà, là một cái Bếp đại phú, đại quý, tiền bạc chạy vào, của quý đưa đến. Nhất định nhà được Bếp này có bậc văn nhân, tú sĩ, khoa giáp đỗ liền liền.
• Lại có lời đoán theo quẻ Phệ Hạp như vầy: Phệ Hạp, lửa với sấm giao hiệp nhau mà Tạo hóa được hanh thông. Con em hùng liệt hạng tướng, công. Bạc vàng súc tích đầy rương tráp, tự mình chẳng biết vì đâu giàu. Chồng vợ vui mừng nói chẳng hết lời.
Bếp số 48 : Bếp LY phối với Cửa TỐN
(Đây là Bếp Thiên y đắc vị. Ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Phong Đỉnh).
• Bếp Ly Am Hỏa phối Cửa Tốn Am Mộc là Hỏa Mộc tương sanh làm ra Bếp Thiên y đắc vị rất tốt: phụ nữ tạo nên gia nghiệp, phố xá, điền địa, của cải đều đặng phong hậu, người trong nhà hay làm việc phúc đức. Nhưng vì Ly Tốn thuần Am chẳng trưởng tấn được cho nên con cháu ít oi, cô dì sanh tật. Dùng Bếp này lâu năm sẽ bất lợi và sanh các chứng bệnh: phong, lao, đầu nhức, mắt đỏ mà tối tăm, hay đau lặt vặt.
• Lại có lời đoán theo quẻ Đỉnh như vầy: Quẻ Đỉnh thuần Am, lúc đầu có lợi, lục súc hưng vượng, ruộng nhà có thêm. Nhưng về sau con cái khó khăn, phải dùng minh linh, nghĩa tử (xin con họ khác làm con mình).