Phép đoán số Hà Lạc dùng để giải đoán vận mệnh đời người, vốn là một ứng dụng quan trọng của Dịch học được lưu hành rộng rãi trong dân gian xưa. Đây là một phương pháp xác suất cổ được nghiên cứu rất công phu dựa trên lý thuyết Tượng số của Dịch học. Cổ nhân tin rằng, con người cũng như vạn vật đều phải tuân theo những quy luật biến dịch chung của Vũ trụ, giống như các con số. Vì vậy, có thể tìm hiểu vận mệnh đời người thông qua Tượng nhị phân của các con số. Còn các con số tuy sinh ra vô vàn, nhưng về cơ bản chỉ có 10 số đếm mà thôi (gồm 5 số sinh và 5 số thành theo Hà Đồ, hoặc biến chuyển theo quy luật của Lạc Thư). Từ đó hình thành nên Lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái, rồi lục thập tứ quái (64 quẻ trùng quái). Cuộc đời mỗi con người sẽ gắn với hai quẻ trùng quái trong số đó, gồm quẻ Tiên Thiên (ứng với nửa đầu đời người), và quẻ Hậu Thiên (ứng với nửa sau đời người).

1. Quẻ Tiên Thiên (Địa Hỏa Minh Di):

Ứng với giai đoạn từ 1 đến 42 tuổi

Quẻ Tiên Thiên (còn gọi là quẻ Thể, quẻ gốc hay quẻ bản mệnh) là quẻ đại diện cho nửa đầu đời người (từ 1 đến 42 tuổi). Quẻ này đại diện cho thể chất và khí chất ban đầu của con người, kể cả tình trạng sức khỏe lẫn sự giáo dục của gia đình và nhà trường mà người đó đã được chuẩn bị để bước vào đời.

  • Lời quẻ:
    • Thoán từ: 明夷: 利艱貞
    • Phiên âm: Minh di: Lợi gian trinh.
    • Quẻ Minh Di chỉ thời vận xấu không thuận lợi cho mọi việc. Công danh sự nghiệp khó thành. Tài vận không có, kinh doanh thua lỗ. Kiện tụng kéo dài và thua kiện, nên cố gắng dàn hòa ngay từ đầu thì hơn. Đi xa không thuận. Thi cử khó đạt, ước nguyện khó thành. Bệnh tật dai dẳng, dễ bị nặng lên. Hôn nhân trắc trở, khó thành lương duyên. Tuy nhiên, phải có lòng kiên nhẫn chờ thời, giữ được trung chính, biết lấy cái tối là cái sáng, thời cơ tốt ắt sẽ đến.
    • Chủ mệnh sinh vào năm Kỷ Sửu là tuổi nạp giáp của quẻ này, như vậy, sẽ giảm bớt cái Hung của quẻ.
  • Các đại vận (tương ứng với các hào):
    • Lưu ý: Mỗi quẻ sẽ có 6 hào, mỗi hào mang ý nghĩa riêng, tuy nhiên tùy thuộc vào mỗi người có Hợp Cách hay không (tức là mệnh của mỗi người có phù hợp với quẻ này hay không, mà sự tốt xấu ban đầu của lời hào có thể thay đổi.
    • Lưu ý 2: Lời hào thường viết chung về các vấn đề tốt xấu của đời người, không phân biệt giai đoạn tuổi tác, do đó có một số trường hợp hào ứng với lứa tuổi thiếu niên hoặc lão niên nhưng vẫn ghi là Thăng quan tiến chức chẳng hạn, thì cần hiểu đây là nội dung tương đồng, tương đương với Thi cử đỗ đạt nếu ứng vào tuổi thiếu niên.
    • Hào Thượng Lục: Ứng với quãng đời từ 1 tuổi đến 6 tuổi
      • Thoán từ: 上六: 不明晦, 初登于天, 後入于地.
      • Phiên âm: Bất minh di, sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.
      • Lời hào: Hào xấu, thiếu tài đức, ngồi cao không bền, dễ mắc sai lầm, gặp gian nan, vất vả. Kẻ sĩ long đong, không gặp vận. Người thường kinh doanh thua lỗ, công việc không thành.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có tài đức, ở ngôi cao, lập công lớn, nhưng không bền. Về già dễ bị tai tiếng.
      • Đánh giá: Hào bình
    • Hào Sơ Cửu: Ứng với quãng đời từ 7 tuổi đến 15 tuổi
      • Thoán từ: 初九: 明夷, 于飛 垂其翼.君子于行, 三日不食, 有攸往, 主人有言.
      • Phiên âm: Minh di, vu phi thùy kì dực. Quân tử vu hành, tam nhật bất thực, hữu du vãng, chủ nhân hữu ngôn.
      • Lời hào: Hào xấu, chỉ sự bị nạn lúc đang hành sự như con chim bị thương lúc đang bay. Người quân tử phải bỏ trốn để lánh nạn, không khỏi bị người đời bàn tán. Quan chức đề phòng bị nghi ngờ. Người thường đề phòng tai bay vạ gió.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có cơ mưu, sáng suốt, tránh được tai họa thời loạn, làm nên sự nghiệp. Kẻ sĩ thành công, thành danh.
      • Đánh giá: Hào cát
    • Hào Lục Nhị: Ứng với quãng đời từ 16 tuổi đến 21 tuổi
      • Thoán từ: 六二: 明夷, 夷于左股, 用拯馬壯, 吉.
      • Phiên âm: Minh di, di vu tả cổ, dụng chửng mã tráng, cát.
      • Lời hào: Hào bình, muốn làm việc lớn phải có lực lượng. Hào tốt cho những người có quyền lực, có thể lập nhiều công lớn; xấu cho những người thân có thế kém lại không biết lượng sức mình, dễ bị tai vạ.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có binh quyền trị nước, làm cho dân yên, nước mạnh.
      • Đánh giá: Hào cát
    • Hào Cửu Tam: Ứng với quãng đời từ 22 tuổi đến 30 tuổi
      • Thoán từ: 九三: 明夷, 于南狩, 得其大首, 不可疾, 貞.
      • Phiên âm: Minh di, vu nam thú, đắc kì đại thủ, bất khả tật, trinh.
      • Lời hào: Hào xấu, hào của tật ách và kiện tụng, cần đề phòng.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có công lớn nhưng không khỏi bị tổn thương.
      • Đánh giá: Hào bình
    • Hào Lục Tứ: Ứng với quãng đời từ 31 tuổi đến 36 tuổi
      • Thoán từ: 六四: 入于左腹, 獲明夷之心, 于出門庭.
      • Phiên âm: Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình.
      • Lời hào: Hào xấu, gặp kẻ có ý đồ xấu muốn làm hại, nên lánh đi chỗ khác.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người biết trước âm mưu của đối phương, có tài ứng phó, tránh được gian nan. Hoặc tố giác được âm mưu của kẻ xấu, góp sức ứng phó nên lập được công trạng.
      • Đánh giá: Hào cát
    • Hào Lục Ngũ: Ứng với quãng đời từ 37 tuổi đến 42 tuổi
      • Thoán từ: 六五: 箕子之明夷, 利貞.
      • Phiên âm: cơ tử chi Minh di, lợi trinh.
      • Lời hào: Hào xấu, có địa vị cao như Cơ Tử mà cũng phải giả điên để tránh sự sát hại của vua Trụ. Quan chức dễ bị nghi ngờ, truất giáng thải hồi. Kẻ sĩ không gặp thời, khó thành sự nghiệp. Người thường gia cảnh không yên vui.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có tài đức lớn, gặp thời hôn ám vẫn giữ được thân, nêu cao được chính nghĩa.
      • Đánh giá: Hào cát
  • Đọc thêm nội dung quẻ này trong sách Kinh Dịch – Đạo của người quân tử:

  • Lời quẻ:
    • Dẫn: Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn, cho nên sau quẻ Tấn tiếp tới Minh di. Di (夷) nghĩa là thương tổn.
    • Thoán từ: 明夷: 利艱貞
    • Phiên âm: Minh di: Lợi gian trinh.
    • Dịch nôm: Ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan, giữ điều chính thì lợi.
    • Giảng nghĩa: Quẻ này ngược với quẻ Tấn ở trên; mặt trời (ly) lặn xuống dưới đất (Khôn) ánh sáng bị tổn hại, tối đi (Minh di). Người quân tử ở thời u ám này, gặp nhiều gian nan, chỉ có cách giữ đức chính trinh của mình thì mới có lợi. Muốn vậy thì ở trong lòng giữ đức sáng mà ở ngoài thì nhu thuận để chống với hoạn nạn như tượng của quẻ Ly là sáng văn minh ở nội quái, Khôn là nhu thuận ở ngoại quái. Vua Văn Vương bị vua Trụ nghi ngờ, giam vào ngọc Dữu Lý, tỏ vẻ rất nhu thuận, không chống đối Trụ, mà để hết tâm trí vào việc viết Thoán từ giảng các quẻ trong Kinh Dịch, nhờ vậy Trụ không có cớ gì để giết, sau thả ông ra. Không những ở ngoài phải tỏ vẻ nhu thuận, mà có khi còn nên giấu sự sáng suốt của mình đi nữa mà trong lòng vẫn giữ chí hướng, như Cơ tử một hoàng thân của Trụ. Trụ vô đạo, Cơ Tử can không được, giả điên, làm nô lệ, để khỏi bị giết, mong có cơ hội tái tạo lại nhà Ân; khi nhà Ân mất, ông không chết với Trụ, cũng không bỏ nước ra đi. Võ vương – con Văn Vương – diệt Trụ rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời ra giúp nước, ông không chịu; sau Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lập một nước riêng. Như vậy là Cơ Tử giấu sự sáng suốt của mình để giữ vững chí, không làm mất dòng dõi nhà Ân (Hối kì minh, nội nạn nhi năng chính kì chí – Thoán truyện). Đại tượng truyện bảo quân tử gặp thời Minh di, muốn thống ngự quần chúng nên dùng cách kín đáo mà lại thấy được rõ (dụng hối nhi minh), nghĩa là dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân , đừng rạch ròi, nghiêm khắc quá mà sẽ bị hại, tóm lại là làm bộ như không biết để chúng không nghi ngờ mình và để lộ hết dụng tâm của chúng ra mà mình sẽ biết được. Cơ hồ tác giả Đại tượng truyện muốn dùng thuật của Hàn Phi.
    • Tổng luận: Quẻ này khuyên người quân tử ở thời hắc ám quá thì có thể bỏ nhà, nước mà đi; hoặc muốn ở lại thì giấu sự sáng suốt của mình mà giữ vững đạo chính để chờ thời.
  • Lời hào:
    • Hào 1:
      • Thoán từ: 初九: 明夷, 于飛 垂其翼.君子于行, 三日不食, 有攸往, 主人有言.
      • Phiên âm: Minh di, vu phi thùy kì dực. Quân tử vu hành, tam nhật bất thực, hữu du vãng, chủ nhân hữu ngôn.
      • Dịch nôm: Hào 1, dương : ở thời u ám (ánh sáng bị tổn hại), hào này như con chim muốn bay mà cánh rũ xuống. Người quân tử biết thời cơ thì bỏ đi ngay, dù (không có tiền) phải nhịn đói ba ngày, mà đi tới đâu, gặp chủ cũ, cũng bị chủ cũ chê trách.
      • Giảng nghĩa: Hào dương ở đầu thời Minh di, là người quân tử gặp thời hắc ám, có thể bị hại như con chim rũ cánh xuống. Cách xử thế là nên bỏ đi ngay, như Phạm Lãi bỏ nước Việt vì biết vua Việt là Câu Tiễn sẽ nghi ngờ mà hại các công thần, nhờ vậy tránh được cái hoạ bị giết như đại phu Chủng.
    • Hào 2:
      • Thoán từ: 六二: 明夷, 夷于左股, 用拯馬壯, 吉.
      • Phiên âm: Minh di, di vu tả cổ, dụng chửng mã tráng, cát.
      • Dịch nôm: Hào 2, âm: Ở thời ánh sáng bị tổn hại, hào này như bị đau ở đùi bên trái, nhưng cũng mau khỏi, sẽ như con ngựa mạnh mẽ tiến lên, tốt.
      • Giảng nghĩa: Hào này làm chủ nội quái Ly (sáng suốt), đắc trung, đắc chính , là bậc quân tử có tài, nhưng ở thời Minh di, hôn ám nên bị tiểu nhân làm hại ít nhiều, như bị thương ở đùi bên trái, nhưng rồi sẽ mau khỏi (dụng chửng), mà như con ngựa mạnh mẽ. Tốt vì hào 2 trung, chính, lại vẫn thuận theo (vì là hào âm) phép tắc. dụng chửng mã tráng R. Wilhelm giảng là : sẽ dùng sức con ngựa mạnh mà giúp đỡ người khác khỏi cơn nguy, J. Legge dịch là: tự cứu mình bằng sức một con ngựa mạnh. Chúng tôi theo Chu Hi và Phan Bội Châu.
    • Hào 3:
      • Thoán từ: 九三: 明夷, 于南狩, 得其大首, 不可疾, 貞.
      • Phiên âm: Minh di, vu nam thú, đắc kì đại thủ, bất khả tật, trinh.
      • Dịch nôm: Hào 3, dương: ở thời ánh sáng bị tổn hại, đi tuần về phương Nam, bắt được kẻ đầu sỏ, nhưng đừng hành động gấp, phải bền chí.
      • Giảng nghĩa: Hào này ở trên cùng nội quái Ly là cực sáng suốt; nó là dương cương , ở vị dương, vậy là rất cương kiện, nó ứng với hào âm ở trên cùng quẻ Khôn (ngoại quái), hào này cực hôn ám. Nó sẽ đánh đổ hào âm đó. Nó cứ đem binh đi tuần về phương Nam (Nam thú: Phan Bội Châu giảng là đem quân tiến lên phía trước để trừ loạn) sẽ bắt được tên đầu sỏ phản loạn. Nhưng nó cương cường nóng nảy, nên phải khuyên: đừng gấp, phải bền chí giữ đạo chính.
    • Hào 4:
      • Thoán từ: 六四: 入于左腹, 獲明夷之心, 于出門庭.
      • Phiên âm: Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình.
      • Dịch nôm: Hào 4, âm: như vô phía bên trái của bụng (ý nói chỗ u ám); tấm lòng ở thời u ám (minh di) là nên bỏ nhà mà ra đi.
      • Giảng nghĩa: Hào này âm nhu, ở vào thời Minh di, mà lại vượt quẻ Ly, sang quẻ Khôn rồi, tức bỏ chỗ sáng sủa, bước vào chỗ tối tăm, cho nên ví như vô phía bên trái của bụng. Nhưng hào này đắc chính (âm ở vị âm) nên có thể rút chân ra khỏi cảnh khốn nạn ấy được: cứ bỏ nhà ra đi, tức tránh cho xa cảnh đó, mặc nó. Đó là hiểu theo Phan Bội Châu. Chu Hi nhận rằng không thấy được nghĩa hào này.
    • Hào 5:
      • Thoán từ: 六五: 箕子之明夷, 利貞.
      • Phiên âm: cơ tử chi Minh di, lợi trinh.
      • Dịch nôm: Hào 5, âm: như ông Cơ Tử ở thời u ám (Minh di), cứ bền giữ đạo chính thì lợi.
      • Giảng nghĩa: Thường các quẻ khác, hào 5 là ngôi chí tôn, quẻ Minh di này hào trên cùng mới là ngôi chí tôn, hào 5 là người thân cận với ngôi chí tôn. Hào trên cùng là ông vua rất hôn ám như vua Trụ, hào 5 là người thân cận có đức trung, như ông Cơ Tử; ông giả điên để khỏi bị Trụ hại mà sau giữ được dòng dõi nhà Ân, như vậy là giữ vững đạo chính, ở ngoài làm ra vẻ hôn mê, mà trong lòng vẫn sáng suốt.
    • Hào 6:
      • Thoán từ: 上六: 不明晦, 初登于天, 後入于地.
      • Phiên âm: Bất minh di, sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.
      • Dịch nôm: Hào trên cùng, âm: không còn là ánh sáng bị tổn thương nữa, lên cao tới trời mà rồi sụp xuống đất.
      • Giảng nghĩa: Hào trên cùng, âm; ở cuối cùng thời Minh di, lại ở trên cùng ngoại quái Khôn, tức như người có địa vị tối cao mà lại hôn ám cùng cực; như vậy là tối mù mù, chứ không phải chỉ là ánh sáng bị tổn hại (Minh di), nữa, cho nên Hào từ bảo là bất minh di. Có cái tượng lên cao tới trời (địa vị tối cao) mà rồi sụp xuống đất. *
  • ☯︎

    2. Quẻ Hậu Thiên (Hỏa Sơn Lữ):

    Ứng với giai đoạn từ 43 tuổi trở đi

    Quẻ Hậu Thiên (còn gọi là quẻ Dụng, hay quẻ biến) là quẻ đại diện cho nửa sau đời người, kể từ khi bước vào đời để phát huy khả năng, tài trí đóng góp cho gia đình và xã hội, đến công thành danh toại, cho đến già và chết (từ 43 tuổi trở đi).

  • Lời quẻ:
    • Thoán từ: 旅: 小亨. 旅貞, 吉
    • Phiên âm: Lữ: tiểu hanh, Lữ trinh, cát.
    • Quẻ Lữ chỉ thời vận khó khăn, bất định, nhiều trắc trở không thể đoán trước. Không phải là thời kỳ thuận lợi cho sự nghiệp. Kinh danh dễ thua lỗ. Tuy nhiên là thời vận thuận lợi cho xuất hành, đi xa có thể gặp cơ may phát đạt. Thi cử khó đạt như mong muốn. Tình yêu bất định, cả thèm chóng chán. Hôn nhân khó bền.
  • Các đại vận (tương ứng với các hào):
    • Lưu ý: Mỗi quẻ sẽ có 6 hào, mỗi hào mang ý nghĩa riêng, tuy nhiên tùy thuộc vào mỗi người có Hợp Cách hay không (tức là mệnh của mỗi người có phù hợp với quẻ này hay không, mà sự tốt xấu ban đầu của lời hào có thể thay đổi.
    • Lưu ý 2: Lời hào thường viết chung về các vấn đề tốt xấu của đời người, không phân biệt giai đoạn tuổi tác, do đó có một số trường hợp hào ứng với lứa tuổi thiếu niên hoặc lão niên nhưng vẫn ghi là Thăng quan tiến chức chẳng hạn, thì cần hiểu đây là nội dung tương đồng, tương đương với Thi cử đỗ đạt nếu ứng vào tuổi thiếu niên.
    • Hào Sơ Lục: Ứng với quãng đời từ 43 tuổi đến 48 tuổi
      • Thoán từ: 初六: 旅瑣瑣, 斯其所取災.
      • Phiên âm: Lữ toả toả, tư kì sở thủ tai.
      • Lời hào: Hào xấu, chỉ người tham lam, tính tình nhỏ nhặt, nhiều người không ưa, khó tiến thủ, không thể làm nên việc lớn.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người nhỏ mọn, tầm thường, chỉ làm nổi việc nhỏ.
      • Đánh giá: Hào bình
    • Hào Lục Nhị: Ứng với quãng đời từ 49 tuổi đến 54 tuổi
      • Thoán từ: 六二: 旅即次, 懷其資, 得童僕, 貞.
      • Phiên âm: Lữ tức thứ, hoài kì tư, đắc đồng bộc, trinh.
      • Lời hào: Hào tốt, trung chính, như ngời đi đường gặp bình an. Nhiều cơ may. Quan chức dễ thăng tiến. Sĩ tử gặp thời thành đạt. Người thường kinh doanh phát đạt, phúc lộc nhiều, bạn bè đông vui, gia đình vui vẻ.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có công với đất nước, phúc lộc nhiều.
      • Đánh giá: Hào cát
    • Hào Cửu Tam: Ứng với quãng đời từ 55 tuổi đến 63 tuổi
      • Thoán từ: 九三: 旅, 焚其次, 喪其童僕, 貞, 厲.
      • Phiên âm: Lữ, phần kì thứ, táng kì đồng bộc, trinh, lệ.
      • Lời hào: Hào xấu. Quan chức dễ bị chê bai, dễ gặp nạn hoả tai tật ách.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người bôn ba, không biết xử thế, tự gây thêm thù oán.
      • Đánh giá: Hào bình
    • Hào Cửu Tứ: Ứng với quãng đời từ 64 tuổi đến 72 tuổi
      • Thoán từ: 九四: 旅于處, 得其資斧, 我心不快.
      • Phiên âm: Lữ vu xử, đắc kì tư phủ, ngã tâm bất khoái.
      • Lời hào: Hào bình. Người có tài nhưng phải hoạt động bên ngoài, xa cấp trên. Sĩ phu chưa được dùng đúng vị trí, khó tiến. Người thường kinh doanh nhiều lợi nhưng cũng lắm lo toan.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có tài đức, trước khó khăn, sau thuận lợi.
      • Đánh giá: Hào cát
    • Hào Lục Ngũ: Ứng với quãng đời từ 73 tuổi đến 78 tuổi
      • Thoán từ: 六五: 射雉, 一矢亡, 終以譽命.
      • Phiên âm: Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh.
      • Lời hào: Hào tốt, nhưng phải thi thố tài năng, mất ít nhưng được nhiều. Dễ thành công, thành danh, dễ được đề bạt lên cao.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có tài, thành đạt từ trẻ, tiếng tăm lừng lẫy.
      • Đánh giá: Hào cát
    • Hào Thượng Cửu: Ứng với quãng đời từ 79 tuổi đến 87 tuổi
      • Thoán từ: 上九: 鳥焚其巢, 旅人先 笑, 後號咷, 喪牛于易, 凶.
      • Phiên âm: điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị, hung.
      • Lời hào: Hào xấu. Quan chức dễ bị truất giáng. Kẻ sĩ nếu có tài, lại khôn khéo, có thể tung hoành, thành đạt. Người thường cần phải đề phòng tai nạn lửa điện.
      • Trường hợp này là mệnh hợp cách, nên chủ mệnh là: Người có vị trí cao sang, nếu cậy quyền sẽ mang hoạ.
      • Đánh giá: Hào bình
  • Đọc thêm nội dung quẻ này trong sách Kinh Dịch – Đạo của người quân tử:

  • Lời quẻ:
    • Dẫn: Thịnh lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.
    • Thoán từ: 旅: 小亨. 旅貞, 吉
    • Phiên âm: Lữ: tiểu hanh, Lữ trinh, cát.
    • Dịch nôm: Ở đậu; hơi hanh thông. Đi ở đậu mà giữ đạo chính thì tốt.
    • Giảng nghĩa: chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh bỏ nhà mà đi ở đậu quê người. Cảnh đó là cảnh bất đắc dĩ, nhiều lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi, nếu người đi ở đậu biết giữ đức trung, thuận, như hào 5, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như ngoại quái Ly. Hào 5 đắc trung mà lại là âm ở giữa hai hào dương, biết thuận theo dương. Cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng làm cao để người ta khỏi ghét; nhưng mặt khác, cũng phải yên lặng sáng suốt giữ tư cách, đạo chính của mình để người ta khỏi khinh. Giữ cho đạo được nghĩa lý trong hoàn cảnh đó thật là khó (lữ chỉ thời nghĩa, đại hĩ tai: lời Thoán truyện). Đại tượng truyện cũng lại áp dụng vào việc hình pháp, khuyên phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như bất lưu ngục)
    • Tổng luận:
  • Lời hào:
    • Hào 1:
      • Thoán từ: 初六: 旅瑣瑣, 斯其所取災.
      • Phiên âm: Lữ toả toả, tư kì sở thủ tai.
      • Dịch nôm: Hào 1, âm: Ở đậu mà tư cách nhỏ nhen, tẳn mẳn tức là tự chuốc lấy hoạ.
      • Giảng nghĩa: hào này âm nhu, ở vị thấp nhất, ví với người chí đã cùng, tư cách hèn hạ đối với chủ nhà mình ở đậu mà tham lam, tẳn mẳn, khiến người ta ghét, như vậy là tự rước hoạ vào mình.
    • Hào 2:
      • Thoán từ: 六二: 旅即次, 懷其資, 得童僕, 貞.
      • Phiên âm: Lữ tức thứ, hoài kì tư, đắc đồng bộc, trinh.
      • Dịch nôm: Hào 2, âm: Ở đất khách, được chỗ trọn an lành, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ tín cẩn.
      • Giảng nghĩa: Ở đất khách nên nhu thuận, mà hào này âm nhu, đắc trung, đắc chính, trên lại ứng với hào 5, cũng âm nhu, đắc trung mà lại văn minh (ở ngoại quái Ly), như gặp được chủ nhà tốt, mình có chỗ trọn an lành, lại giữ được tiền, có đầy tớ tín cẩn, mọi việc đều tốt cả.
    • Hào 3:
      • Thoán từ: 九三: 旅, 焚其次, 喪其童僕, 貞, 厲.
      • Phiên âm: Lữ, phần kì thứ, táng kì đồng bộc, trinh, lệ.
      • Dịch nôm: Hào 3, dương: Ở đất khách, mà (tự mình) đốt chỗ trọ, mất đầy tớ, dù chính đáng cũng nguy.
      • Giảng nghĩa: Hào này quá cương (dương ở vị dương), bất trung, ở đất khách như vậy không tốt, vị lại khá cao, có ý tự cao, bị chủ nhà trọ đuổi, như vậy không khác gì tự đốt chỗ trọ của mình, đầy tớ cũng không ưa mình, mất lòng cả người trên kẻ dưới, dù mình có chính đáng, cũng nguy.
    • Hào 4:
      • Thoán từ: 九四: 旅于處, 得其資斧, 我心不快.
      • Phiên âm: Lữ vu xử, đắc kì tư phủ, ngã tâm bất khoái.
      • Dịch nôm: Hào 4, dương: tới đất khách, được chỗ ở tạm, có tiền của và đồ hộ thân (tượng trưng bằng cái búa), nhưng trong lòng không vui.
      • Giảng nghĩa: tuy dương cương nhưng ở vị âm, lại ở dưới cùng ngoại quái, là biết mềm mỏng, tự hạ, tức biết xử thế, cho nên được chỗ ở tạm, có tiền của, vật liệu để phòng thân, nhưng ở trên, hào 5 âm nhu không giúp đỡ gì được 4, ở dưới, hào 1, ứng với 4 âm nhu, lại thấp hèn, cũng chẳng giúp đỡ 4 được gì, vì vậy là lòng 4 không vui. Các sách cho tư phủ là cái búa sắc bén, và giảng là : lữ khách tới nơi, không có quán trọ, chỉ có mảnh đất gai góc, phải dùng búa bén để phá bụi bờ mà làm chỗ ở, nên trong lòng không vui.
    • Hào 5:
      • Thoán từ: 六五: 射雉, 一矢亡, 終以譽命.
      • Phiên âm: Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh.
      • Dịch nôm: Hào 5, âm : Bắn con trĩ, mất một mũi tên, sau được khen và phúc lộc (hoặc chức vị: mệnh) .
      • Giảng nghĩa: Thường hào 5 trỏ ngôi vua, nhưng nếu vua là làm lữ khách thì là vua mất nước, cho nên chỉ nên coi là một lữ khách thôi, một lữ khách văn mình (ở ngoại quái ly), nhũn nhặn, mềm mỏng (âm nhu) được lòng mọi người (đắc trung) , như vậy tất được tốt đẹp như bắn được con trĩ (một loài chim đẹp – tượng quẻ Ly) tốn hao không mấy mà được tiếng khen, và phúc lộc.
    • Hào 6:
      • Thoán từ: 上九: 鳥焚其巢, 旅人先 笑, 後號咷, 喪牛于易, 凶.
      • Phiên âm: điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị, hung.
      • Dịch nôm: Hào trên cùng, dương: con chim cháy mất tổ, người lữ hành trước cười, sau kêu khóc, vì láu táu (vô ý) đánh mất con bò (đức nhu thuận), xấu.
      • Giảng nghĩa: thân phận ở đậu mà lại ở trên chủ nhà, đã là nghịch cảnh rồi, đã vậy lại quá cương (hào dương), mất lòng người, tất bị đuổi đi, như con chim cháy mất tổ. Mới đầu hớn hở, vì được ở trên người, sau phải kêu khóc vì mất chỗ trọ. Sở dĩ vậy vì khinh dị đánh mất đức nhu thuận (tượng bằng con bò) rất cần ở thời ở đậu.